Tiếp tục về các vòng sao chính
Trong playlist “các vòng sao chính” này, tôi đã đi qua vòng Thái Tuế và vòng Bác Sỹ. Còn vòng Tràng Sinh, do không dùng trong đoán tiểu hạn và lưu niên nên tôi tạm gác lại. Thường thì ta coi vòng Thái Tuế là yếu tố Thiên thời, tức là trời cho, là ý trời. Vòng Bác Sỹ hay còn gọi là vòng Lộc Tồn là yếu tố Địa lợi, đây là yếu tố môi trường, hoàn cảnh sống. Ý nghĩa của các vòng sao này ở nguyên cục thì không có gì khác biệt giữa các sách, nên tôi chỉ tập trung nói vào ý nghĩa khi xem vận hạn. Ví dụ trong đại hạn thì mình an 2 vòng này, tiếp đến tiểu hạn cũng an 2 vòng này, lưu niên cũng vậy. Ở đây tôi xin lưu ý, 1 năm chỉ có 1 tiểu hạn nhưng có thể có 2 lưu niên, đối với những bạn sinh trước tháng 9, tức là có tính tuổi mụ.
Nhưng chỉ tính đến 1 Lưu niên thế cũng đã an đến 6 vòng sao rồi. Nghe đã thấy mệt phải không nào, nếu viết ra thì chật kín cả bảng. Thế nên người xưa khi xem vận hạn thường chỉ xem đến niên hạn thôi. Nguyệt hạn là cực kỳ rối rắm. Trong khi đó cách tính lưu niên lại không giống tiểu hạn, nên phức tạp ở chỗ đặt vị trí cung Mệnh. Từ đó dẫn tới sự rối rắm. Sau này người ta đơn giản hóa bằng cách chỉ xem tiểu hạn, bỏ lưu niên, tức là chỉ lấy nguyên nhân, bỏ kết quả. Nhưng thường cũng chỉ xem các sao nguyên cục, mà bỏ qua huyền không phi tinh. Tức là bỏ qua sao bay.
Tôi ví dụ nhé, các bạn xem hạn năm thì bắt đầu xem Thái Tuế, có Thái Tuế nguyên cục là ở ngay cung địa chi của mình, Lưu Thái Tuế cho đại hạn nhiều phần mềm bỏ qua, Lưu Thái Tuế cho tiểu hạn an vào cung địa chi của năm, đó là nguyên nhân. Lưu Thái Tuế của lưu niên mới là kết quả thì lại an theo cung lưu niên. Tương tự như vậy với vòng Bác Sỹ. Thành ra phải an rất nhiều sao, dù chỉ tính đến niên hạn.
Sau đây tôi sẽ nói đến vòng Tướng Tinh, đây là vòng sao mà khi về đến Việt Nam thì bỏ. Vòng này cũng dùng để tính hạn.
Tướng Tinh, rất ứng khi xem vận mà bị bỏ qua.
Ngoài ra còn một vòng sao nữa ở bên Trung Quốc sử dụng mà ở Việt Nam không có nhưng tôi vẫn nói đến là vòng Tướng Tinh. Ở Việt Nam có sử dụng một vài sao ở trong này, Ví dụ như hoa cái kiếp sát. Nhưng tôi sẽ nói về cả các sao không được sử dụng ở Việt Nam để các bạn hiểu thêm.
Đầu tiên chúng ta cần phải biết cách An vòng sau này. Đầu tiên khởi từ sao tướng tinh, chúng ta quy về Bộ Tam Hợp là dần Ngọ Tuất thì tướng tinh an tại Ngọ. thân Tý Thìn thì Tướng Tinh an tại Tí. Tị Dậu Sửu thì tướng tinh an tại Dậu và Hợi Mão Mùi thì Tướng Tính an tại Mão. Tức là chi giữa trong bộ tam hợp sẽ an sao Tướng Tinh và an theo chiều thuận kim đồng hồ. Luôn là như vậy, rất dễ nhớ. Các bạn cần nhớ vì vòng sao này khi xem vận rất ứng, tuy nó nhỏ.
Trong clip này tôi sẽ lấy ví dụ để các bạn hiểu, như là năm nay năm Thìn chẳng hạn, bộ tam hợp của Thìn là Thân Tí Thìn, tức là Tướng Tinh năm nay an tại Tí, lấy chi giữa của bộ tam hợp mà, mà cung Mệnh của bạn lại ở Tí, thì có thể đoán nhanh là năm nay sẽ có sự trợ giúp vì sao này là quý nhân. Tất nhiên, cung Tí là cung nào thì năm nay sẽ có trợ giúp cho cung đó, cung Tài thì năm nay có ít tiền, ấy là tôi ví dụ thế, còn tùy vào bố cục các sao khác nữa chứ không chỉ tính riêng cho 1 sao được.
Rồi tịnh tiến thuận chiều kim đồng hồ, đến Phan Án, Tuế dịch, Tức Thần, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm trì, Nguyệt Sát và Vong Thần. Cứ thế mình sẽ an được vòng Tướng tinh và như vậy là có thể đoán thêm được 1 ít nữa, cùng với các bộ sao khác. Hay không nào!
6 sao đầu trong vòng Tướng Tinh
Sao đầu tiên cần phải an là sao tướng tinh. Sao này là quý nhân, chủ về cả văn cả võ. Người mà mệnh có sao tướng tinh có thể nói nhanh là được trợ giúp rất nhiều và là người tài giỏi. Như là người tuổi Dần Ngọ Tuất mà mệnh lại ở Ngọ. Các cung khác cũng vậy, tùy vào cung nào mà Tướng Tinh sẽ sinh cho cung đấy, trừ cung Tật.
Sao tiếp theo trong vòng này là Phan Án. Sao này có nghĩa là tăng thanh thế, gặp được quý nhân. Sao này còn có tác dụng giải hạn, tất nhiên là không nhiều như Hóa Khoa, Thiên Giải, nhưng đến hạn xấu mà có Phan Án, thì vẫn là còn hơn không.
Tiếp đến là sao Tuế Dịch, tức là sao Thiên Mã theo cách gọi của hệ tử vi Việt Nam.
Thứ tư là sao Tức Thần. Sao này thì chủ về cái sự trì trệ. Nếu mà ở cung Phúc thì người này thường có những suy nghĩ bi quan tiêu cực. Hoặc mình đang ở vận tốt, mà có Tức Thần, thì cũng không được hưởng trọn. Tất nhiên nó ảnh hưởng chủ yếu là chậm chạp, trì trệ thôi, chứ không mang tính phá hoại, nên cũng không hẳn là đáng lo.
Thứ năm và sáu là Hoa Cái và Kiếp Sát. Hai sao này trong hệ tử vi Việt Nam cũng có nên tôi không nói đến nữa.
Vòng Tướng Tinh, 6 sao cuối về sự khó khăn, mệt mỏi
Sao thứ 7 trong vòng Tướng Tinh là Tai Sát, chủ về những việc tai nạn. Tai Sát là sao có trong hệ Tứ Trụ, nên nếu các bạn học Tứ Trụ cũng biết về Tai Sát. Tôi chỉ nói thêm một ít vì đây vẫn là loạt bài về tính vận, Tai Sát có sự khác biệt theo hành của các cung mà nó đóng. Đặc biệt cần quan tâm nếu trong tiểu vận mà Tai Sát rơi vào cung Tật.
Sao thứ 8 là Thiên Sát, tức là gây khó cho quan hệ. Sao này nếu đang trong hạn tam tai năm thứ 3 mà Lưu niên cung Nô có Thiên Sát, lại có Phục Binh thì mới gọi là đáng ngại thôi, chứ không có gì đáng sợ hay phải lo lắng gì cả.
Thứ 9 là Chỉ Bối. Sau này thường là bị người ta nói xấu, dèm pha, rất là kỵ rơi vào cung mệnh, cung huynh hay cung nô.
Rồi đến sao Hàm Trì, là một tên gọi khác của sao Đào Hoa trong hệ tử vi Việt Nam.
11 và 12 là sao Nguyệt Sát và Vong Thần. Đây là 2 sao gây nhiều sự mệt mỏi. Nguyệt Sát nặng hơn với nữ giới, tôi sẽ có bài nói riêng về sao này. Nguyên Sát có nghĩa là những cái tai ách âm thầm. Còn Vong Thần là những bị những cái phá hoại bất ngờ. Vong Thần trong tiểu hạn mà rơi vào những cung quan trọng có Phi Liêm, thì cái sự phá hoại rất là mệt, vì nhiều khi mình không kịp chống đỡ do nhanh quá. Đã bất ngờ lại còn nhanh, mệt mỏi là như thế.
Vòng tướng tinh này có thể áp dụng khi mình xem vận hạn. Đại hạn cũng với cách an sao như trên. Vì loạt bài này là về ứng dụng 3 vòng sao để xem hạn, tức là các bạn chỉ có thể tự xem cho mình. An cả 3 vòng từ Đại vận, đến Tiểu vận, lại thêm cả Lưu niên, là rất nhiều sao rồi. Kết hợp cùng với các sao nguyên cục nữa. Cái hay của Tử Vi là chỗ này, phải đi đến tận cùng các câu hỏi mới hiểu được về nguyên lý, từ nguyên lý mới khởi phát sự hiểu. Có hiểu rồi để vận dụng vào cuộc sống. Còn biết chỉ để biết, chỉ là “Tín tận thư, như vô thư” mà thôi!
Về sao Nguyệt Sát: âm thầm nhưng bức bối.
Đây là sao ảnh hưởng rất nhiều đến nữ hơn là nam. Nó mang nhiều ý nghĩa giống Thiên Sát, nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Tất nhiên, vẫn phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh, tức là phải xem bố cục chung. Nhưng ví dụ Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện rõ ràng. Người ta nói Nguyệt Sát gặp Văn Khúc, Văn Xương, Hóa Kị cũng có thể gặp họa tình ái. Nhưng theo tôi nghiệm thấy, thì còn tùy Hóa Kị ở đâu nữa. Nếu Hóa Kị ở vị trí đắc địa thì không ngại, vì đó là mây ngũ sắc. Còn mấy trường hợp tôi gặp khi Nguyệt Sát gặp Hồng Loan thì đúng là phức tạp, nhất là có Đào Hoa chiếu về. Như thế để nói là Nguyệt Sát nó gây ra sự mệt mỏi theo kiểu bức bối, khó chịu, đôi khi dai dẳng, mà mình rất khó để chủ động tránh hẳn ra.
Khi chọn ngày thì ngày khởi sự làm việc gì mà có Nguyệt Sát cũng nên tránh. Ngày này có cái năng lượng tiêu cực theo cách mờ ám. Nên khởi sự làm việc như khai trương, cưới xin, mua nhà… không nên vào ngày này. Điều này đã được nói đến trong mấy sách như “Quảng Thánh lịch”, “Khu yếu lịch” hay “Lịch lệ” nên ta tránh cũng là có cơ sở.
Trong “Hiệp kỷ biên phương thư” thì cho Nguyệt Sát giống với Kiếp Sát, nhưng tôi thì lại cho Nguyệt Sát nó mang tính âm thầm, nên cái sự bức bối nó gây ra khó chịu hơn Kiếp Sát. Và so giữa 2 ngày thì Nguyệt Sát vẫn có thể mở đàn cúng tế, giải oan. Còn Kiếp Sát thì không làm gì hết.
Vì đây là xem Tử Vi nên tôi chỉ chú trọng về Nguyệt Sát khi nhập hạn thôi. Dù sao, hệ Tử Vi Việt Nam bỏ vòng Tướng Tinh nên các bạn cũng coi như đây là để tham khảo.